Bằng cái dĩa, sỉa xuống ao
Đào không thấy, lấy không lên
(Mặt trăng)
Về thực vật:
Đầu rồng, đuôi phượng le te
Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con
(Câu cau và buồng cau)
Về động vật quen thuộc:
Bốn ông đập đất, một ông phất cờ
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân
(Con trâu: 4 chân, đuôi, mõm, lỗ đít)
Về sinh hoạt:
Anh đỏ liếm đít chị đen
Chị đen không nói, ăn quen liếm hoài.
(Ngọn lửa và đít nồi)
Có thể dẫn ra một loạt trường hợp tương tự, từ cái cối giã trầu, ông bình vôi của bà mẹ đến nồi cơm, cái gáo múc nước, từ cây cỏ, vật dụng trong nhà đến chiếc xuồng, tấm lưới cho đến cả trăng, sao trên trời.
Tuy nhiên, những câu đố chiếm số lượng nhiều nhất vẫn là những câu đố được gắn liền với cuộc sống chung quanh. Người ta có thể nhận biết nó, khi câu đố liên quan với tên đất, tên sông, các sự kiện lịch sử đã từng xảy ra ở địa phương hay sự nghiệp của một nhân vật cụ thể... Nhưng không phải khi nào cũng vậy. Rất nhiều câu đố chỉ mang dấu ấn tâm lý, tính cách con người, cảnh sắc, sản vật địa phương... mà muốn xác định phải có một sự suy đoán, liên hệ, đối chiếu công phu.
Trước hết, đó là loại câu đố về quê hương, về những đặc sản nổi tiếng, về những nhân vật tiêu biểu. Thường thì những câu đố này vừa hàm chứa tình yêu mến, vừa pha lẫn niềm tự hào.
Để khẳng định một vùng đất trù phú:
Quê em ba dải cù lao
Có dừa ăn trái, có cau ăn trầu
(tỉnh nào?)
Quê anh có cửa biển sâu
Có ruộng lấy muối, có dâu nuôi tằm.
(Huyện nào?)
Những câu trên đây vừa thuộc dạng ca dao, vừa là câu đố. Nói chung, loại câu đố này đơn giản, ít lắt léo, nên việc đoán giải không khó.
Dừa và cau là hai loại đặc sản nổi tiếng của địa phương – có hàng chục câu đố về cau và dừa. Tuy vậy có những câu, nếu không có sự suy luận, liên hội tốt thì không dễ đoán giải được.
Ví dụ:
Sông không đến, bến không vào
Lơ lửng giữa trời làm sao có nước?
Hoặc:
Giữa lưng trời có vũng nước trong
Cá lòng tong không mong lội tới.
Hay câu đố về động tác trèo cau:
Chân trói, tay bíu, khu nắc, mắt nhìn
Hai tay thì tréo
Hai chân thì trói
Cái đít thì lắc
Con mắt ngó chừng.
Người ra câu đố cũng khi mượn được một tâm trạng để chỉ một loại cây trái phổ biến trong vùng:
Một mình âm ỉ canh chầy
Dĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.
(Trái sầu riêng)
Chất trí tuệ dân gian đôi khi được vận dụng một cách thông minh, nhằm lái suy nghĩ của người đoán giải về một hướng khác để chệch mục tiêu cần tìm. Từ chỗ miêu tả một động tác hái trái vốn là một sản phẩm phổ biến ở địa phương (thực vật), người ra đố lại nhằm về một món ăn (xuất thực vật) phổ biến trong bữa cơm nhà nghèo, theo lối nói lái:
May không chút nào nữa thì lầm
Cau dầy không bẻ, bẻ nhằm cau ranh
(Canh rau)
Thực chất cái gọi là "đố", chỉ gói tròn trong hai chữ cuối cùng.
Đất Bến Tre cũng là nơi sinh ra nhiều nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký... Loại câu đố “xuất nhân danh” ở đây cũng đã khắc họa được đặc trưng riêng về những con người đó. Có trường hợp đọc lên là có thể hiểu ngay như câu đố về cụ Đồ Chiểu:
Quyết tâm rửa sạch quốc thù
Ô hô cặp mắt, công phu lỡ làng.
Hay như câu đố về người phụ nữ làm chủ bút tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Nữ giới chung: bà Sương Nguyệt Anh.
Đem chuông lên đánh Sài Gòn
Để cho nữ giới biết con ông Đồ.
Cũng có những câu đố “Xuất nhân danh” đòi hỏi người đoán giải phải có kiến thức về lịch sử như trường hợp câu đố về nhà bác học Trương Vĩnh Ký:
Xứng danh thập bát văn hào
Soạn nhiều sách quý giúp trào hậu lai.
Bến Tre là một trong một số tỉnh ở Nam Bộ có phong trào học chữ Nho phát triển mạnh vào thế kỷ XIX. Những thầy đồ Huế, thầy đồ Quảng chính cũng là những tác giả loại câu đố “xuất Hán tự”. Để trả lời đúng loại câu đố này, người đoán giải bắt buộc phải biết chữ Nho:
Chữ ngũ mà chẳng có đầu
Chữ ngưu dưới khẩu lộn nhầu một khuôn
(Chữ vi: vây quanh)
Cô là con gái còn son
Cớ sao lại để đứa con ngồi kề.
(Chữ hảo: ưa thích)
Từ sau khi chữ quốc ngữ được phổ biến rộng, ở Bến Tre lại có thêm một loại câu đố “xuất quốc ngữ” theo mẫu tự La-tinh.
Nếu lối “đố tục, giảng thanh” là một đặc trưng của câu đố Việt Nam, thường tạo nên những yếu tố bất ngờ, trào lộng mà cái nghĩa ẩn của nó lắm khi làm đỏ mặt các cô gái và cả những "nhà đạo đức” đạo mạo, thì ở Bến Tre loại câu đố này, ngoài tính chất chung trên, còn mang sắc thái địa phương của một vùng sông nước, cây trái dồi dào. Chính cái tính chất trào lộng, đa ý, đa nghĩa đó làm cho cuộc đố trở nên sôi động, rôm rả, hấp dẫn, kéo theo những trận cười sảng khoái trong những cuộc chơi:
Đem em mà bỏ xuống xuồng
Chèo ra khúc vịnh lột truồng em ra.
(Nghề ươm tơ thủ công)
Rõ ràng là nếu ai chưa một lần trông thấy cảnh cô thợ ươm tơ vừa bỏ những chiếc kén tằm vào nồi nước sôi, vừa dùng đôi đũa để điều khiển mối tơ ra cho đều thì khó đáp nổi câu đố trên. Câu đố cũng phản ảnh một giai đoạn lịch sử (ươm tơ, dệt lụa) của đất Ba Tri từ hơn nửa thế kỷ trước.
Hoặc câu đố nói về động tác của người ngư dân làm nghề đóng đáy trên các cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên...
Canh một thì trải chiếu ra
Canh hai xét vú, canh ba rà mồm
Canh tư khởi ép sự dồn
Canh năm cuốn chiếu, rửa trôn, việc rồi.
Cái nghề lao động khá vất vả trên sông nước này lại được người ra câu đố miêu tả như một cuộc "mộng du" theo trình tự thời gian từ canh một cho chí canh năm: “trải chiếu” (giăng đáy), “xét vú” (kiểm tra rốn đáy), “rà mồm" (rà soát lại miệng đáy), “cuốn chiếu”, “rửa trôn” (kết thúc một đêm vật lộn trên sóng nước). Cách miêu tả này dễ gây cho người giải đoán một sự liên tưởng chệch hướng, dễ nghiêng về phía cái tục.
Hoặc câu đố về một loại trái cây quen thuộc:
Bằng cổ tay treo ngay đầu cột
Ăn cơm rồi, bắt lột áo ra.
(Trái chuối tráng miệng sau bữa cơm)
hay một loài cây (xuất mộc) thường thấy mọc ở các giồng cát vùng Thạnh Phú, Ba Tri:
Đêm khuya gà gáy o o
Kiếm mùng em vợ lén bò chun vô.
(Cây chó đẻ)
Rõ ràng cái nội dung hàm ý phê phán hành vi phi đạo đức của những anh chàng "dê" nào đó để đánh lừa người đi tìm lời giải đoán.
Ở Bến Tre, cũng như nhiều tỉnh khác ở Nam Bộ, câu đố còn được vận dụng trong hát đối đáp:
Thấy anh ăn học Sài Gòn
Em đây xin hỏi trăng tròn mấy đêm?
hoặc:
Thấy anh ăn học Bắc Kỳ
Em đây hỏi thiệt con bò gì không kêu?